Lịch sử Camera_quan_sát

Camera giám sát tại Trạm Kiểm soát Cảnh sát Trung tâm, Munich Đức năm 1973.Bàn làm việc tại một trong những phòng kiểm soát khu vực của Cảnh sát Quốc gia ở Hà Lan vào năm 2017.CCTV trên tường giám sát phòng điều khiển cho 176 camera đường phố năm 2017.

Một hệ thống CCTV cơ học ban đầu được nhà vật lý người Nga Léon Theremin [13] phát triển vào tháng 6 năm 1927. Theo yêu cầu ban đầu của Liên Xô Lao động và Quốc phòng, hệ thống này bao gồm một camera truyền dữ liệu quét, vận hành bằng tay và bộ thu và phát sóng ngắn không dây, với độ phân giải một trăm dòng. Dự án được Kliment Voroshilov chỉ đạo, hệ thống CCTV của Theremin đã được trình diễn cho Joseph Stalin, Semyon BudyonnySergo Ordzhonikidze, và sau đó được lắp đặt trong sân của Điện Kremlin ở Moskva để theo dõi những vị khách đến gần.[13]

Một hệ thống camera quan sát ban đầu khác được Siemens AG lắp đặt tại Trạm thử nghiệm VIIPeenemünde, Đức Quốc xã vào năm 1942, để quan sát vụ phóng tên lửa V-2.[14]

Ở Mỹ, hệ thống camera giám sát đầu tiên có mặt vào năm 1949, được gọi là Vericon. Có rất ít thông tin về Vericon ngoại trừ nó được quảng cáo là không cần giấy phép của chính phủ.[15]

Công nghệ

Các hệ thống giám sát video đầu tiên liên quan đến việc giám sát liên tục vì không có cách nào để ghi lại và lưu trữ thông tin. Sự phát triển của phương tiện băng từ cho phép ghi lại các cảnh quay giám sát. Các hệ thống này yêu cầu các băng từ phải được thay đổi thủ công, đây là một quá trình tốn thời gian, tốn kém và không đáng tin cậy, với việc người vận hành phải mắc băng thủ công từ cuộn băng qua máy ghi vào một cuộn tiếp nhận trống. Do những thiếu sót này, việc giám sát bằng video không được phổ biến rộng rãi. Công nghệ VCR xuất hiện vào những năm 1970, giúp việc ghi và xóa thông tin trở nên dễ dàng hơn và việc sử dụng giám sát video trở nên phổ biến hơn.[16]

Trong những năm 1990, kỹ thuật ghép kênh kỹ thuật số đã được phát triển, cho phép một số máy ảnh ghi cùng một lúc, cũng như ghi lại thời gian trôi đi và chỉ ghi lại các chuyển động khung hình nếu có. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc, dẫn đến việc sử dụng camera quan sát ngày càng tăng.[17]

Gần đây, công nghệ CCTV đã được nâng cao với sự chuyển hướng sang các sản phẩm và hệ thống dựa trên Internet, và các phát triển công nghệ khác.[18]

Áp dụng

CCTV được sử dụng như một hình thức truyền hình rạp trả tiền cho mỗi lần xem cho các môn thể thao như quyền anh chuyên nghiệpđấu vật chuyên nghiệp, và từ năm 1964 đến năm 1970, cuộc đua ô tô Indianapolis 500. Các chương trình truyền hình về quyền anh được truyền hình trực tiếp đến một số địa điểm nhất định, chủ yếu là rạp chiếu phim, nơi người xem trả tiền mua vé để xem trực tiếp trận đấu.[19][20] Cuộc thi đấu đầu tiên với kênh dùng camera quan sát là Joe Louis vs. Joe Walcott năm 1948.[21] Các camera quan sát thu phát sóng đã trở nên phổ biến với Muhammad Ali vào những năm 1960 và 1970,[19][20] với việc thu hút 50 triệu người xem cuộc đấu "The Rumble in the Jungle " qua CCTV trên toàn thế giới vào năm 1974,[22] và trận đấu "Thrilla ở Manila" thu hút 100 triệu người xem CCTV trên toàn thế giới vào năm 1975.[23] Năm 1985, chương trình đấu vật chuyên nghiệp WrestleMania I đã có được hơn một triệu người xem.[24] Cuối năm 1996, trận đấu quyền Anh Julio César Chávez vs. Oscar De La Hoya có 750.000 người xem.[25] Camera quan sát dần được thay thế bằng truyền hình cáp gia đình trả tiền theo lượt xem vào những năm 1980 và 1990.[20]

Vào tháng 9 năm 1968, Olean, New York là thành phố đầu tiên của Hoa Kỳ lắp đặt máy quay phim dọc theo con phố kinh doanh chính của mình trong nỗ lực chống tội phạm.[26] Một lần xuất hiện sớm khác là vào năm 1973 tại Quảng trường Thời đạiThành phố New York.[27] NYPD đã cài đặt nó để ngăn chặn tội phạm đang xảy ra trong khu vực; tuy nhiên, tỷ lệ tội phạm dường như không giảm nhiều do có camera.[27] Tuy nhiên, trong những năm 1980, việc giám sát bằng video bắt đầu lan rộng khắp đất nước, đặc biệt nhắm vào các khu vực công cộng.[17] Nó được coi là một cách rẻ hơn để ngăn chặn tội phạm so với việc tăng quy mô của các sở cảnh sát.[27] Một số doanh nghiệp cũng vậy, đặc biệt là những doanh nghiệp dễ xảy ra trộm cắp, bắt đầu sử dụng video giám sát.[27] Từ giữa những năm 1990 trở đi, các sở cảnh sát trên toàn quốc đã lắp đặt ngày càng nhiều camera ở các không gian công cộng khác nhau bao gồm các dự án nhà ở, trường học và các sở công viên.[27] CCTV sau đó đã trở nên phổ biến trong các ngân hàng và cửa hàng để ngăn chặn hành vi trộm cắp, bằng cách ghi lại bằng chứng về các hoạt động tội phạm. Năm 1998, 3.000 hệ thống CCTV đã được sử dụng ở Thành phố New York.[28]

Các thử nghiệm ở Anh trong những năm 1970 và 1980, bao gồm cả camera quan sát ngoài trời ở Bournemouth vào năm 1985, đã dẫn đến một số chương trình thử nghiệm lớn hơn vào cuối thập kỷ đó. Lần đầu tiên chính quyền địa phương sử dụng công nghệ này là ở King's Lynn, Norfolk, vào năm 1987.[29]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Camera_quan_sát http://www.allthings.com.au/Catalogue/cctv%20secur... http://www.cbsnews.com/news/surveillance-cameras-a... http://articles.chicagotribune.com/1996-06-07/spor... http://fennoturvapalvelut.com/ http://www.sdmmag.com/articles/92407-rise-of-surve... http://www.viakoo.com/orphaned-video-system-in-phi... http://www.wecusurveillance.com/cctvhistory http://forward-edge.net/the-big-question-are-cctv-... //dx.doi.org/10.1080%2F10242694.2011.650481 //dx.doi.org/10.1080%2F14043858.2017.1387410